Chuyển đến nội dung chính

Lê Hiển Tông – Wikipedia tiếng Việt


Lê Hiển Tông (chữ Hán: 黎顯宗, 1717 – 1786), tên húy là Lê Duy Diêu (黎維祧), là vị hoàng đế áp chót của nhà Lê trung hưng trong lịch sử Việt Nam. Ông ở ngôi từ tháng 5 năm 1740, sau khi Trịnh Doanh ép vua Lê Ý Tông nhường ngôi cho ông, đến ngày 17 tháng 7 năm 1786[1]. Ông là con trưởng của vua Lê Thuần Tông, làm vua được 47 năm, thọ 70 tuổi, là vị vua ở ngôi lâu nhất và là vua thọ nhất của nhà Hậu Lê. Đời Hiển Tông chỉ đặt một niên hiệu là Cảnh Hưng.




Việc phế lập trước khi lên ngôi[sửa | sửa mã nguồn]


Thời Lê trung hưng, nhà Lê mất hết quyền hành, triều chính do các chúa Trịnh thao túng. Việc lập vua, thậm chí lập hoàng hậu và thái tử đều có sự can thiệp của họ Trịnh.

Sau cái chết bức tử của Lê Kính Tông (1619), các vua Lê đều nép mình không dám chống đối họ Trịnh. Suốt hơn 100 năm, việc nối ngôi của các đời vua Lê ổn định không có xáo trộn. Tuy nhiên tới cuối niên hiệu Thái Bảo thời Lê Dụ Tông, khi hoàng tử Duy Diêu lớn lên, lại bắt đầu xảy ra việc phế lập.

Tháng Bảy năm 1727, chúa Trịnh Cương ép vua Lê Dụ Tông bỏ con trưởng là Duy Tường để lập Duy Phường, con trai của chính cung Trịnh thị[2] làm Hoàng thái tử. Năm 1729, lại ép hoàng thượng nhường ngôi cho Duy Phường, hai năm sau Dụ Tông qua đời[3].

Sau khi Trịnh Cương chết (cùng năm 1729), Trịnh Giang nối ngôi lại muốn thay đổi việc làm của cha vì Trịnh Cương khi sống từng có ý định thay ngôi thế tử của mình, nên lại tiếp tục làm việc phế lập. Tháng Tám năm 1732, Trịnh Giang truất Lê Duy Phường làm Hôn Đức Công, đưa Duy Tường lên ngôi vua, tức Lê Thuần Tông. Tháng Tư năm 1735, Thuần Tông mất sớm, Trịnh Giang lại lập Duy Thận, em Thuần Tông làm vua, tức Lê Ý Tông. Tháng 9 năm đó, Giang giết luôn vua từng bị phế là Hôn Đức Công Lê Duy Phường. Theo Cương mục, khi đó Duy Diêu 19 tuổi, là người cao tuổi nhất trong các hoàng tử của Thuần Tông, "nhưng Trịnh Giang e rằng Duy Diêu tuổi đã trưởng thành, và nhận thấy Duy Thận (17 tuổi) là cháu ngoại bà thái phi Vũ Thị, trước kia vẫn nuôi nấng ở trong phủ, thân cận yêu đương có phần dễ kiềm chế. Giang mới nói thác ra rằng diện mạo Duy Thận giống như tiên đế, nên quyết ý lập làm vua."



Trịnh Giang ăn chơi không lo việc triều chính. Bên ngoài, nhân dân nhiều nơi nổi dậy khởi nghĩa, nhiều người dùng khẩu hiệu "Phù Lê diệt Trịnh" để gây thanh thế, đó là phong trào khởi nghĩa nông dân Đàng Ngoài. Cùng khởi binh chống họ Trịnh có các hoàng thân Lê Duy Mật, Lê Duy Quy (con của vua Lê Dụ Tông và là chú ruột của Duy Diêu) cùng Lê Duy Chúc (con của vua Lê Hy Tông). Duy Diêu vì việc đó mà bị Trịnh Giang bắt giam lại.

Trước tình hình biến loạn, triều đình và gia tộc họ Trịnh buộc phải ép Trịnh Giang thoái vị, đưa em là Trịnh Doanh lên ngôi vào tháng 1 năm 1740. Trịnh Doanh có điều chỉnh trong cách đối xử với nhà Lê để thu phục lòng người, bình ổn và dẹp yên nội loạn. Trong khi Trịnh Giang có chủ trương cứng rắn với nhà Lê thì Trịnh Doanh cố gắng giữ tỏ ra thiện chí với nhà Lê chính thống bằng cách mật sai người đưa Duy Diêu tới lánh ở nhà Bính quận công Vũ Tất Thận.

Tháng Năm năm 1740, chỉ năm tháng sau khi nắm quyền bính, Trịnh Doanh ép Lê Ý Tông trả ngôi vua lại cho ngành trưởng, đưa Lê Duy Diêu lên ngôi, tức là Lê Hiển Tông. Ý Tông được tôn lên làm thái thượng hoàng[4].



Trịnh Doanh là chúa có tài, trong hơn 10 năm lần lượt dẹp hầu hết các cuộc khởi nghĩa của nông dân, đưa tình hình Đàng Ngoài ổn định trở lại.

Dưới thời Trịnh Doanh, vua Lê Hiển Tông tuy cũng chỉ là bù nhìn, nhưng không phải đối diện với mối đe dọa có thể bị phế truất như những vua trước và nhận được sự tôn trọng nhất định từ phía phủ chúa, tuy chỉ mang tính hình thức.

Tháng Sáu năm 1751, một số cải cách hình thức trong quan chế của triều đình vua Lê đã được Trịnh Doanh cho phép tiến hành, như việc bổ nhiệm các quan đứng đầu lục bộ, lục khoa, các quan khanh… Tuy nhiên, tham tụng, bồi tụng, tức là gia thần của phủ chúa, mới là những người nắm quyền thực sự, còn thượng thư, thị lang các bộ chỉ là vị hão của triều đình. Cuối năm 1753, Trịnh Doanh ép Lê Hiển Tông phong cho con trưởng của mình là Trịnh Sâm làm thế tử thừa kế ngôi chúa.

Tháng Sáu năm 1754, Trịnh Doanh mời nhà vua ra sông Nhị duyệt binh. Đây là việc chưa từng có tiền lệ trước đó, bởi các chúa Trịnh luôn tìm cách ngăn cản tối đa việc vua Lê tiếp xúc trực tiếp với quân đội[cần dẫn nguồn]. Sự kiện này khẳng định lòng tin của Trịnh Doanh với nhà vua. Sách Cương mục chép:


"Trịnh Doanh lấy cớ rằng trong nước mới bình yên, bắt các quân lính phô trương sức mạnh, mời nhà vua ngự ra xét duyệt, trăm quan làm lễ chầu mừng. Bèn hạ lệnh cho thủy binh bày hàng chiến thuyền ở giữa sông, dung nghi quân sĩ rất tề chỉnh, bơi chèo ngược dòng nước, thuyền phóng đi như bay. Nhà vua rất bằng lòng, gần tối, xa giá trở về cung"[5].

Năm 1759, Thượng hoàng Lê Ý Tông qua đời. Bầy tôi bàn việc việc cử hành tang lễ, xin nhà vua để tang ba năm nhưng ông từ chối:


Trẫm là con trưởng của tiên đế lên nối ngôi, không phải làm con người khác, khi nào trẫm dám nhận hai tông thống.

Rồi quyết định phục tang một năm[6]. Tháng 11 năm 1761, sứ thần nhà Thanh là Hàn lâm thị độc Đức Bảo và Đại lý thiếu khanh Cố Nhữ Tu sang Đại Việt phong cho Hiển Tông làm An Nam quốc vương. Tháng Giêng năm 1764, vua Lê Hiển Tông lập con trưởng là Lê Duy Vỹ làm thái tử. Trịnh Doanh gả con gái là Tiên Dung quận chúa cho Duy Vĩ.



Tháng Giêng năm 1767, Trịnh Doanh chết, con là Trịnh Sâm lên thay, được phong làm Tĩnh Đô vương. Trịnh Sâm từ nhỏ đã có hiềm khích sâu nặng với thái tử Duy Vĩ, nên nuôi ý định trả thù.

Tháng Ba năm 1769, Trịnh Sâm vu tội cho thái tử Duy Vĩ tư thông với cung tần của Trịnh Doanh, ép nhà vua phế thái tử và giam vào ngục. Thái tử từng lo sợ sẽ bị hãm hại, nên nói vua biết, nhưng nhà vua chỉ biết đi cầu đảo, khấn vái mà thôi. Đến đó, quân Trịnh đã ở ngoài cửa Đông cung, thái tử chạy sang cung vua. Phạm Huy Đĩnh vào thẳng nội điện, đòi nhà vua giao thái tử ra. Nhà vua ôm mãi lấy thái tử, không nỡ ly biệt. Huy Đĩnh cứ quỳ mãi ở dưới sân. Thái tử biết thế không thoát khỏi, đành phải bước ra. Trịnh Sâm sau đó giả mệnh nhà vua, phế thái tử làm thứ nhân, giam vào ngục. Các con của Duy Vĩ, cháu của Hiển Tông là Duy Khiêm (sau này là Lê Chiêu Thống), Duy Trù và Duy Chi cũng bị bắt giam[7]. Tháng Tám năm đó, Trịnh Sâm lập con thứ tư của vua là Lê Duy Cận làm thái tử, vì Duy Cận thờ phụng Trịnh thái phi là Nguyễn thị rất kính cẩn, quyền phế lập lại do cả tay chúa Trịnh. Tháng 12 năm 1771, Trịnh Sâm giết Duy Vĩ. Lê Hiển Tông bất lực không thể làm gì để cứu con.

Trong thời gian đó, Trịnh Sâm từng có ý cướp ngôi nhà Lê, nên sai Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu sang nhà Thanh nói là nhà Lê không có con cháu hiền tài và xin vua Thanh phong tước cho. Nhưng Trần Thiệu là người trung thành, nên đã đốt tờ biểu ấy đi và tự tử.

Lúc đó chính quyền chúa Trịnh bắt đầu suy yếu. Năm 1782, Trịnh Sâm chết, con nhỏ là Trịnh Cán mới 6 tuổi lên thay, tức là Điện Đô vương, khi đó mới 6 tuổi. Cuối năm đó, lính kiêu binh cùng nhau nổi dậy phế truất Trịnh Cán, lại lập Trịnh Tông làm chúa. Tháng Giêng năm 1783, có loạn kiêu binh, quân lính giải thoát cho các con của Duy Vĩ, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng Công và lập Duy Khiêm làm người kế vị của Hiển Tông[8].

Phe của Trịnh Tông vì nỗi kiêu binh lộng quyền nên tìm cách trừ khử. Vào đầu năm 1784, quân sĩ có người cậy công rước hoàng tự tôn về, xin ban phong cho cha mẹ, họ đem nhau vào sân điện tâu bày để xin phong, nhà vua sai triệu vào nội điện, tuyên bố chỉ dụ yên ủi. Trịnh Tông biết chuyện, bèn cùng mưu với Nguyễn Khản, Nguyễn Triêm và Dương Khuông đến nội điện bắt kiêu binh được 7 tên đều xử trảm. Lính kiêu binh tức giận, bèn giết Nguyễn Triêm, đuổi Nguyễn Khản và Dương Khuông. Trước tình hình đó, Trịnh Tông hợp mưu với quân tứ trấn cùng kéo về kinh giết hết lính Thanh Nghệ. Nhưng bọn kiêu binh biết được việc đó, canh gác phủ chúa rất kĩ, Trịnh Tông không thể ra ngoài (để hội quân). Chúng lại buộc nhà chúa phải lệnh cho các trấn bãi binh, nhưng lệnh không tới được, lính kiêu binh bèn cùng nhau lấy hết binh khí trong phủ chúa, dự định đốt kinh thành rồi giương cờ phù Lê, lật đổ phe chúa Trịnh, đã chuẩn bị thuyền đưa nhà vua về Thanh Hoa. Tuy nhiên về sau các trấn bãi binh, nên việc ấy lại thôi[9].



Tháng Bảy năm 1786, tướng Tây Sơn là Nguyễn Huệ với chiêu bài "phù Lê diệt Trịnh" kéo quân ra Thăng Long đánh đổ Trịnh Khải và ngỏ ý tôn phù Lê Hiển Tông. Khi quân Tây Sơn tiến vào, nhà vua đã lâm bệnh, các hoàng tử hầu hạ nâng giấc ở trong nội điện, thấy ngoài cung điện có lính và voi, ngờ là giặc kéo đến uy hiếp, liền vực nhà vua dậy toan lánh đi chỗ khác. Chợt lúc ấy, viên tỳ tướng đệ dâng bản tâu, trước hết bày tỏ lễ ý xin thăm hỏi sức khỏe nhà vua, sau nữa xin định ngày sẽ vào triều bái yết. Nhà vua nhận được tờ tấu, mới yên tâm.

Nhà vua triệu kiến Nguyễn Văn Huệ ở điện Vạn Thọ, sai đặt một giường khác ở bên cạnh giường vua ngự để Văn Huệ ngồi. Văn Huệ rụt rè không dám ngồi, nhà vua ép mãi, Văn Huệ mới ngồi ghé vào cạnh chiếu, rồi tâu bày về lý do lật đổ họ Trịnh và tôn phù nhà Lê. Do sự mai mối của Nguyễn Hữu Chỉnh - cựu thần của Bắc Hà theo hàng Tây Sơn - Hiển Tông gả công chúa Lê Ngọc Hân cho Nguyễn Huệ. Lại hạ lệnh truyên triệu bọn Phan Lê Phiên, Uông Sĩ Điển, Trần Công Thước và bầy tôi hơn mười người về triều.

Nguyễn Huệ lại xin định ngày làm lễ dâng sổ sách binh dân, Hiển Tông cố gượng dậy, ra ngự điện Kính Thiên nhận lễ, rồi ban hành chiếu thư về việc nhất thống để bá cáo cho trong kinh ngoài trấn biết. Ngày 17 tháng 7 năm đó, vua mất tại điện Vạn Thọ, ở ngôi 47 năm, hưởng thọ 70 tuổi. Hiển Tông sống qua 4 đời chúa Trịnh. Ông được táng tại lăng Bàn Thạch.

Trước khi mất, Hiển Tông dặn lại cháu kế vị là Duy Khiêm (tức Lê Chiêu Thống) phải lựa ý Nguyễn Huệ mà định việc kế lập. Cương mục chép:


Khi bệnh nguy kịch, cho triệu Hoàng thái tôn (Duy Khiêm) đến bảo rằng: "Ta chỉ sớm tối sẽ trút bỏ gánh nặng, bây giờ lo lắng việc nước là ở mình cháu, cháu phải nghĩ lấy". Thái tôn vừa lạy vừa khóc xin nhận mệnh lệnh. Nhà vua nói: "Binh lính xứ khác còn đóng ở đây, về việc truyền nối ngôi vua là việc trọng đại, cần phải thương lượng bàn bạc với nguyên soái[10], chớ nên làm tắt"[11].

Các nhà sử học đời sau đánh giá Lê Hiển Tông là một vị vua nhu nhược, nhưng may mắn. Hiển Tông là vị vua Lê điển hình thời trung hưng, nhẫn nhục chịu đựng, "khoanh tay rủ áo" để được yên vị. Tấm gương bị phế truất và bị sát hại của các vua trước khiến Hiển Tông thu mình, không còn ý định phản kháng.

Khi Đoan nam vương Trịnh Khải mới lên làm chúa, quân kiêu binh có lần đã nghĩ đến cái mưu tôn phù nhà Lê lấy lại quyền bính và lén đến xin ý kiến nhà vua. Những người xung quanh cũng đã khuyên nhà vua nên nghe theo mưu ấy. Nhưng nhà vua nói:


Ta vì thành thật nghe theo trời nên mới được như thế này. Những chuyện do ở mưu người xếp đặt, ta quyết không làm. Nếu kẻ nào còn dám nói đến chuyện đó, trẫm sẽ lôi sang cho chúa, để theo phép mà làm tội.

Sự nhàn rỗi lâu năm khiến nhà vua tuổi cao, sức yếu không còn động lực trở lại với chính sự. Bản thân Hiển Tông cũng coi ngai vàng là một gánh nặng. Theo Hoàng Lê nhất thống chí, khi Nguyễn Huệ diệt Trịnh, Hiển Tông nói với các cung nữ:


Trời sai nhà chúa phò ta. Chúa gánh cái lo, ta hưởng cái vui. Mất chúa, tức là cái lo lại về ta, ta còn vui gì?

Cương mục chép:


"Nhà vua là người nhân từ, trầm tĩnh. Lúc về già, gặp Trịnh Sâm áp bức, cũng chỉ ngậm miệng mà nhịn. Đến nay Tây Sơn tôn phò, nhà vua ngoài mặt tuy mừng mà trong bụng vẫn lấy làm lo."

Cương mục cũng chép lại lời bình của vua Tự Đức về thái độ của nhà vua trước cuộc hành quân bắc tiến của Tây Sơn năm 1786:


"Chống hùm cửa trước, rước beo cửa sau”, ôi cũng nguy hiểm lắm! Trịnh Doanh lập Hiển Tông để nương nhờ vào phúc đức, mà Hiển Tông từ trước đến sau, nhất thiết việc gì cũng do ở người khác. Nhiều lần gặp tai họa bất trắc xảy ra, chỉ vì không vướng vít với thất tình, mà được trọn đời an toàn, cũng là may mà thôi".

Hiển Tông sau khi bị giam cầm, vào nối nghiệp lớn, biết kín đáo giữ mình, thuận lựa theo chiều biến cố, ung dung lặng lẽ, không thi thố gì, làm cho Trịnh Sâm dẫu ngạo nghễ, càn bậy rông rỡ, lấn ép đến đâu cũng không dám giở hết mọi ngón độc ác, nên Hiển Tông mới ở ngôi được hơn 40 năm.[12]



  1. ^ Âm lịch

  2. ^ Theo Trịnh gia chính phả, bà tên là Trịnh Thị Ngọc Phúc, con gái của Đề quận công Trịnh Lan, về thế thứ thuộc hàng cô của chúa Trịnh Cương

  3. ^ Cương mục, chính biên quyển 37

  4. ^ Cương mục, chính biên quyển 39

  5. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên quyển thứ 41

  6. ^ Cương mục, chính biên quyển 42

  7. ^ Cương mục, chính biên quyển 43

  8. ^ Cương mục, chính biên quyển 46

  9. ^ Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ 4

  10. ^ Tức Nguyễn Huệ

  11. ^ Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục, Chính biên quyển thứ 46

  12. ^ Cương mục, chính biên quyển 47


Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Thời kỳ Heian – Wikipedia tiếng Việt

Thời kỳ Heian ( 平安時代 , Heian-jidai , âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là thời kỳ đạo Khổng và các ảnh hưởng của Trung Quốc phát triển tới đỉnh cao. Thời kì Heian cũng được coi là giai đoạn đỉnh cao của quyền lực Nhật hoàng, đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật, thơ ca và văn học. Heian ( 平安 , Heian) trong tiếng Nhật có nghĩa là "hòa bình" hoặc "yên bình". Heian kế tiếp thời kỳ Nara, bắt đầu từ năm 794 sau khi Nhật hoàng thứ 50, Kammu, rời kinh đô Heijō-kyō ( 平城京 , Bình Thành Kinh ở Nara) tới Heian kyō ( 平安京 , Bình An kinh thành phố Kyoto ngày nay). Đây được coi là một dấu son trong văn hóa Nhật Bản, được các thế hệ sau ghi nhớ ngưỡng mộ. Thời kỳ Heian cũng đánh dấu sự thăng hoa của tầng lớp samurai, tầng lớp sau cùng sẽ chiếm đoạt quyền lực và bắt đầu thời kì phong kiến ở Nhật Bản. Về cơ bản, quyền lực tối cao do Nhật hoàng nắm giữ. Nhưng trong thực tế, dòng họ quý tộc Fu

Bất hòa nhận thức - Wikipedia

Trong lĩnh vực tâm lý học, sự bất hòa về nhận thức là sự khó chịu về tinh thần (căng thẳng tâm lý) của một người đồng thời nắm giữ hai hoặc nhiều niềm tin, ý tưởng hoặc giá trị trái ngược nhau. Sự khó chịu này được kích hoạt bởi một tình huống trong đó một người niềm tin xung đột với bằng chứng mới mà người đó cảm nhận được. Khi đối mặt với những sự thật mâu thuẫn với niềm tin, lý tưởng và giá trị cá nhân, mọi người sẽ tìm cách giải quyết mâu thuẫn để giảm bớt sự khó chịu của họ. [1] [2] Trong Lý thuyết về sự hỗn loạn nhận thức (1957), Leon Festinger đề xuất rằng con người phấn đấu cho sự nhất quán tâm lý bên trong để hoạt động tinh thần trong thế giới thực. Một người trải qua sự không nhất quán bên trong có xu hướng trở nên khó chịu về mặt tâm lý, và do đó được thúc đẩy để giảm sự bất hòa về nhận thức, bằng cách thay đổi để biện minh cho hành vi căng thẳng, bằng cách thêm các phần mới vào nhận thức gây ra sự bất hòa về tâm lý, hoặc bằng cách chủ động tránh các tình huống xã hội

Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984 – Wikipedia tiếng Việt

Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984 UEFA Championnat Européen de Football France 1984 Thông tin chung Nước chủ nhà   Pháp Thời gian 12 – 27 tháng 6 Số đội 8 Địa điểm thi đấu 7  (tại 7 thành phố chủ nhà) Vị trí chung cuộc Vô địch   Pháp (lần thứ 1) Á quân   Tây Ban Nha Thống kê Số trận đấu 15 Số bàn thắng 41  (2.73 bàn/trận) Khán giả 599.669  (39.978 khán giả/trận) Vua phá lưới Michel Platini (9 bàn) Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984 ( Euro 1984 ) là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ bảy do UEFA tổ chức 4 năm một lần. Vòng chung kết diễn ra tại Pháp từ ngày 12 đến ngày 27 tháng 6 năm 1984. Tại giải, đội tuyển Pháp dưới sự dẫn dắt của Michel Platini giành chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình. Còn Tây Đức trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ở ngay từ vòng bảng. Các quốc gia lọt vào vòng chung kết Euro 1984 Các quốc gia tham dự vòng chung kết lần này gồm: Vòng đấu bảng [ sửa | sửa mã nguồn ] Đội giành quyền vào vòng trong. Bảng A [ sửa | sửa mã nguồn ] Đội Pld W D L