Chuyển đến nội dung chính

Thời kỳ Heian – Wikipedia tiếng Việt


Thời kỳ Heian (平安時代, Heian-jidai, âm Hán Việt: Bình An thời đại) là thời kì phân hóa cuối cùng trong lịch sử Nhật Bản cổ đại, kéo dài từ năm 794 đến 1185. Đây là thời kỳ đạo Khổng và các ảnh hưởng của Trung Quốc phát triển tới đỉnh cao. Thời kì Heian cũng được coi là giai đoạn đỉnh cao của quyền lực Nhật hoàng, đánh dấu sự phát triển của nghệ thuật, thơ ca và văn học. Heian (平安, Heian) trong tiếng Nhật có nghĩa là "hòa bình" hoặc "yên bình".





Heian kế tiếp thời kỳ Nara, bắt đầu từ năm 794 sau khi Nhật hoàng thứ 50, Kammu, rời kinh đô Heijō-kyō (平城京, Bình Thành Kinh ở Nara) tới Heian kyō (平安京, Bình An kinh thành phố Kyoto ngày nay). Đây được coi là một dấu son trong văn hóa Nhật Bản, được các thế hệ sau ghi nhớ ngưỡng mộ. Thời kỳ Heian cũng đánh dấu sự thăng hoa của tầng lớp samurai, tầng lớp sau cùng sẽ chiếm đoạt quyền lực và bắt đầu thời kì phong kiến ở Nhật Bản.

Về cơ bản, quyền lực tối cao do Nhật hoàng nắm giữ. Nhưng trong thực tế, dòng họ quý tộc Fujiwara đã thâu tóm quyền lực. Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi tại các tỉnh lị, nhà Fujiwara và các dòng họ quý tộc khác phải có vệ sĩ, cảnh vệ và các binh sĩ. Tầng lớp võ sĩ đã học hỏi được rất nhiều điều trong suốt thời kỳ Heian. Đầu năm 939, Taira no Masakado đe dọa quyền lực của chính quyền trung ương bằng việc dẫn đầu cuộc nổi loạn ở tỉnh Hitachi ở phía Bắc. Gần như trong cùng thời điểm, Fujiwara no Sumitomo nổi loạn ở phía Tây. Phần lớn sức mạnh của chính quyền nằm trong quân đội riêng của shogun.

Sự lấn tới của tầng lớp võ sĩ vào ảnh hưởng của hoàng gia là hậu quả của cuộc nổi loạn Hōgen. Cùng thời gian này, Taira no Kiyomori học theo âm mưu của Fujiwara bằng việc đưa con ông lên giữ ngôi trị vì Nhật Bản bằng chức nhiếp chính. Gia tộc này (gia tộc Taira) vẫn tại vị cho đến sau cuộc chiến đánh dấu sự mở đầu của Mạc phủ, Chiến tranh Genpei. Thời kỳ Kamakura bắt đầu năm từ năm 1185 khi Minamoto no Yoritomo giành được quyền lực từ hoàng đế và thiết lập Mạc phủ, tức Mạc phủ Kamakura, tại Kamakura.



Lầu phượng hoàng trong Byodoin, một công trình kiến trúc Phật giáo được xây dựng vào thời kỳ Heian.

Khi Nhật hoàng Kammu rời kinh đô tới Heian-kyō (Kyoto), trung tâm của hoàng gia trong hơn 1000 năm sau đó. Kammu không chỉ muốn tăng cường quyền lực hoàng đế mà còn củng cố vị thế địa chính trị của bộ máy cai trị. Kyoto có một con sông dẫn ra biển và có thể đến được bằng đường bộ qua các tỉnh phía Đông. Thời Heian giai đoạn đầu (784-967) là sự tiếp tục văn hóa thời kì Nara, thủ đô Heian (Kyoto) được thiết kế theo kiểu kinh đô Trường An của nhà Đường. Nara cũng như vậy nhưng ở quy mô lớn hơn. Bất chấp sự suy thoái của các cải cách Taika-Taihō, chính quyền hoàng gia vẫn rất mạnh vào giai đoạn đầu thời kì Heian. Sự thật là, việc Nhật Hoàng Kammu tránh xa các cải cách mạnh mẽ đã làm giảm cường độ các cuộc đấu tranh chính trị và ông đã được thừa nhận là một trong những hoàng đế mạnh mẽ nhất của Nhật Bản.

Dù đã bỏ chế độ nghĩa vụ quân sự năm 792, Kammu vẫn tiến hành những cuộc tấn công quân sự lớn nhằm thu phục người Emishi, những người được cho là con cháu của người thời kỳ Jōmon đã di cư, sống ở Bắc và Đông Nhật Bản. Sau khi thu được một số lãnh thổ năm 794, năm 797 Kammu bổ nhiệm một tướng lĩnh mới với tên hiệu Chinh di đại tướng quân. Năm 801, vị tướng này đánh bại người Emishi và mở rộng lãnh địa hoàng gia tới cuối phía Đông của đảo Honshū. Quyền lực hoàng đế với các tỉnh ở thời điểm mong manh nhất. Tuy nhiên, trong thế kỉ 9 và 10, phần lớn quyền lực rơi vào tay các gia tộc lớn, họ không coi trọng các vùng đất có phong cách Trung Hoa và hệ thống thuế của chính quyền tại Kyoto. Sự ổn định đến với thời kì Heian, dù sự kế vị được đảm bảo cho gia đình hoàng đế theo phương thức truyền ngôi, quyền lực lại lần nữa tập trung vào tay của dòng họ quý tộc như nhà Fujiwara.


Tranh cuộn vào khoảng 1130, minh họa một cảnh từ chương "Sông tre’’ trong "Truyện kể Genji.

Sau cái chết của Kammu năm 806 và sự tranh giành quyền kế vị của hai con trai ông, hai cơ quan mới được thành lập để điều chỉnh lại hệ thống hành chính Taika-Taihō. Thông qua Ngự tiền viện, Hoàng đế có thể soạn thảo các chiếu chỉ trực tiếp và chắc chắn hơn trước kia. Ban Cảnh binh thủ thay thế các đơn vị cấm vệ mang nặng tính nghi lễ. Trong khi hai cơ quan này củng cố quyền lực của Thiên hoàng, chúng và các cấu trúc kiểu Trung Hoa khác nhạt dần khi đất nước phát triển hơn. Ảnh hưởng Trung Hoa thực sự chấm dứt với đoàn sứ bộ của Hoàng gia đến nhà Đường năm 838. Nhà Đường là một đất nước đang suy vong, và Phật giáo Trung Quốc đang bị khủng bố quyết liệt, làm xói mòn sự kính trọng của người Nhật với các thể chế Trung Quốc. Nhật Bản bắt đầu thay đổi theo chiều hướng hướng nội hơn.

Giống như gia tộc Soga nắm quyền kiểm soát ngai vàng trong thế kỷ 6, gia tộc Fujiwara đã thông hôn với Hoàng gia trong thế kỷ 9, và một trong những thành viên của họ trở thành người đứng đầu Ngự tiền phòng của Hoàng đế. Một người nhà Fujiwara khác trở thành Nhiếp chính quan, Sessho cho cháu trai mình, khi đó là một ấu chúa, và một người nữa được phong chức Kanpaku. Cho đến cuối thế kỷ 9, vài Thiên Hoàng cố gắng, nhưng thất bại để kìm hãm nhà Fujiwara. Tuy vậy, có một lần dưới triều Nhật Hoàng Daigo (897-930), chế độ nhiếp chính Fujiwara bị gián đoạn vì Nhật hoàng trực tiếp trị vì.

Tuy nhiên, gia đình Fujiwara không hề bị suy yếu dưới triều Daigo mà thực tế họ còn mạnh hơn. Tập quyền ở Nhật Bản tiếp tục bị xói mòn, và nhà Fujiwara, cùng với vài gia đình lớn và tổ chức tôn giáo, có thêm nhiều shōen (trang ấp) và vô cùng giàu có vào đầu thế kỷ 10. Vào đầu thời Heian, các shōen đã có được địa vị pháp lý, và các tổ chức tôn giáo lớn giữ lấy cái danh vĩnh cửu, từ chối nộp thuế, và miễn nhiễm trước việc kiểm soát của chính quyền với các shōen mà họ nắm giữ. Những người canh tác trên đất thấy việc đổi tên gọi thành shōen rất có lợi cho phần chia sau vụ mùa. Nhân dân và đất đai ngày càng vuột khỏi tầm kiểm soát của thuế khóa và triều đình, thực tế đã trở lại tình trạng trước Cải cách Taika.



Trong vòng một thập kỷ sau cái chết của Daigo, gia đình Fujiwara nắm quyền kiểm soát toàn diện triều đình. Năm 1000, Fujiwara no Michinaga đã có thể phế lập Thiên Hoàng theo ý muốn. Rất ít quyền lực thuộc về chế độ hành chính truyền thống, và việc triều chính nằm cả trong tay gia đình Fujiwara. Nhà Fujiwara được nhà sử học George B. Sansom gọi là "độc tài cha truyền con nối."

Bất chấp việc chiếm đoạt vương quyền, nhà Fujiwara vẫn tạo ra một thời kỳ nở hoa của nghệ thuật và mỹ học giữa triều đình và tầng lớp quý tộc. Những vần thơ duyên dáng cùng văn học tiếng bản ngữ rất được ưa chuộng. Văn tự tiếng Nhật đã từ lâu dựa vào kanji, nay nó được bổ sung thêm bằng kana, hai cách phát âm chữ viết Nhật Bản: katakana, một hệ thống dựa vào trí nhớ sử dụng chữ tượng hình Trung Hoa; và hiragana, bảng ký hiệu âm tiết bằng chữ thảo với một phương pháp viết riêng biệt đặc sắc Nhật Bản. Hiragana cho người viết cảm xúc với những từ phát âm, và với nó, lại càng quảng bá cho sự nổi tiếng của văn học tiếng Nhật, đa phần các tác phẩm được những người phụ nữ trong triều viết ra, họ đều không biết tiếng Trung Quốc như đàn ông. Ba phụ nữ cuối thế kỷ 10, đầu thế kỷ 11 đã giới thiệu cái nhìn về cuộc sống và sự lãng mạn ở triều đình Heian trong "Tinh Linh Nhật ký" ([[:ja:蜻蛉日記|蜻蛉日記]] Kagero nikki) do "mẹ của Fujiwara Michitsuna" viết, "Sách gối đầu" của Sei Shonagon và "Truyện kể Genji" của Murasaki Shikibu. Nghệ thuật bản xứ cũng nở hoa dưới triều đại Fujiwara sau hàng thế kỷ noi theo hình mẫu Trung Hoa. Những bức vẽ phong cách Nhật Bản sặc sỡ yamato-e về đời sống triều đình và những câu chuyện về đền thờ và nơi linh thiêng trở thành thông dụng vào giữa và cuối thời Heian, trở thành khuôn mẫu cho nghệ thuật Nhật Bản ngày nay.

Khi văn hóa phát triển rực rỡ, sự phân quyền cũng ngày càng trầm trọng. Trong khi thời kỳ đầu tiên của phát triển shōen vào đầu thời kỳ Heian đã chứng kiến việc khai hoang nhiều đất đai mới và việc phong đất cho các nhà quý tộc và các thể chế tôn giáo, thời kỳ thứ hai chứng kiến gia sản các "gia tộc triều đình" phình lên. (Thực tế, hệ thống gia tộc cũ vẫn gần như còn nguyên vẹn ở trong triều đình tập quyền cũ). Các thể chế mới nay cần đối diện với sự thay đổi về xã hội, kinh tế, và chính trị. Luật Taihō mất hiệu lực, các thể chế của nó bị gạt khỏi chức năng nghi lễ. Hệ thống hành chính gia đình nay trở thành thể chế chung. Khi gia đình quyền lực nhất Nhật Bản, nhà Fujiwara thống trị Nhật Bản và quyết định mọi việc triều chính, ví dụ như việc thừa kế ngai vàng. Việc gia đình và triều chính hoàn toàn bị trộn lẫn, một hình mẫu được bắt chước bởi các gia đình khác, các tu viện, và thậm chí cả Hoàng gia. Việc quản lý đất đai trở thành công việc chính yếu của các gia đình quý tộc, không nhiều sự quản lý trực tiếp từ Hoàng gia hay chính phủ trung ương vì quyền lực của họ đã suy giảm và sự đoàn kết lớn trong gia đình và việc thiếu ý thức thống nhất quốc gia của người Nhật.


Tầng lớp quân sự cầm quyền[sửa | sửa mã nguồn]


Vào đầu thời này, khi chế độ cưỡng bách tòng quân vẫn được trung ương kiểm soát, các hoạt động quân sự không nằm trong tay của các quý tộc địa phương. Nhưng khi hệ thống này bị dỡ bỏ sau năm 792, các thế lực địa phương trở thành nguồn sức mạnh quân sự chủ yếu. Những người chủ Shōen đã trở thành những người đầy quyền thế và, vì họ đã tiếp thu được kỹ thuật quân sự tiến bộ (ví dụ như phương pháp huấn luyện, cung, tên, ngựa khỏe hơn và những thanh kiếm siêu hạng) và đối mặt với tình hình địa phương ngày càng tồi tệ đi trong thế kỷ 9, hoạt động quân sự trở thành một phần của đời sống các shoen. Không chỉ các "shoen" mà cả các thế chế dân sự và tôn giáo cũng tổ chức các đơn vị bảo an riêng để bảo vệ chính mình. Dần dần, tầng lớp trên ở địa phương chuyển thành giai cấp quý tộc quân sự dựa trên tư tưởng của bushi (võ sĩ) hay samurai.

Sự hâm mộ các võ sỹ gồm nhiều loại khác nhau, phá vỡ cơ cấu quyền lực xưa cũ và tạo ra những quan hệ mới trong thế kỷ 9. Tầm quan trọng của tình cảm, những mối liên hệ gia đình, và mối quan hệ họ hàng được củng cố trong các nhóm quân sự và trở thành một phần của chế độ gia đình trị. Trong thời đại này, các gia đình quân sự lớn ở địa phương tập hợp xung quanh những quý tộc triều đình, những người đã trở thành những nhân vật địa phương nổi bật. Những gia đình quân sự gây dựng thanh thế bằng mối liên hệ với hoàng gia, các danh gia quân sự tại triều đình và tiếp cận với nguồn nhân lực. Các gia tộc Fujiwara, Taira và Minamoto nằm trong số những gia tộc nhận được sự ủng hộ lớn nhất của các giai tầng quân sự mới.

Sản lượng lương thực suy giảm, dân số gia tăng, và cạnh tranh giữa các gia đình lớn về các nguồn lực đều dẫn đến sự suy giảm dần quyền lực của nhà Fujiwara và làm gia tăng sự mất ổn định quân sự vào giữa thế kỷ 10 và thế kỷ 11. Thành viên của các gia tộc Fujiwara, Taira, và Minamoto—tất cả đều có nguồn gốc hoàng gia—tấn công lẫn nhau, tuyên bố quyền kiểm soát những dải đất lớn của những vùng đất chiếm được, thiết lập những chế độ thù địch, và nói chung là đã phá vỡ nền hòa bình của Xứ sở Mặt trời mọc.

Nhà Fujiwara kiểm soát ngai vàng cho đến triều đại Nhật hoàng Go-Sanjō (1068-73), Thiên hoàng đầu tiên không do một người mẹ từ gia đình Fujiwara sinh ra kể từ thế kỷ 9. Go-Sanjo, quyết tâm phục hồi đế quyền qua sức mạnh kiểm soát cá nhân, thi hành các cải cách để kiềm chế ảnh hưởng của nhà Fujiwara. Ông cũng thiết lập một cơ quan để soạn thảo và xác nhận tính hợp lệ của các hồ sơ bất động sản với mục đích tái xác nhận quyền kiểm soát trung ương. Shōen không có giấy phép đúng đắn, và những người nắm giữ đất đai lớn, như nhà Fujiwara, cảm thấy bị đe dọa vì mất đi nhiều đất đai. Go-Sanjo cũng thành lập Incho, hay "Viện Sảnh", do người thừa kế của Thiên Hoàng đứng đầu, người từ bỏ quyền lợi để cống hiến bản thân mình cho sự cai trị ở hậu trường, hay Insei ("Viện Chính’’).

‘'Incho lấp đầy khoảng trống quyền lực của nhà Fujiwara. Thay vì bị xua đuổi, nhà Fujiwara trở lại vị trí cũ của mình là độc tài dân sự và Trung Đại Nhân và thường bị bỏ qua trong việc ra các quyết định. Trong thời gian này, rất nhiều người nhà Fujiwara bị thay thế, phần lớn là bởi thành viên của gia tộc Minamoto đang nổi lên. Trong khi nhà Fujiwara bất hòa và chia thành hai phe Bắc Nam, hệ thống "Insei" cho phép huyết thống trực hệ hoàng gia lại giành được ảnh hưởng đằng sau ngai vàng. Thời kỳ từ năm 1086 đến năm 1156 là thời gian của "Incho" có quyền uy tối thượng và sự nổi lên của tầng lớp quân sự trên toàn quốc. Quân sự thay vì dân sự đã thống trị triều đình.



Tranh đoạt ngai vàng vào giữa thế kỷ 12 cho nhà Fujiwara cơ hội để tái lập quyền lực của mình. Fujiwara no Yorinaga sát cánh cùng vị Thiên Hoàng già trong một trận quyết chiến năm 1156 chống lại người được cho là người kế vị, được sự ủng hộ của hai gia tộc Taira và Minamoto (Bạo loạn Hogen). Cuối cùng, nhà Fujiwara bị tiêu diệt, hệ thống triều đình cũ bị thay thế, và hệ thống "Insei" không còn quyền lực vì bushi (võ sỹ) nắm việc triều chính, tạo ra một bước ngoặt trong lịch sử Nhật Bản. Năm 1159, hai nhà Taira và Minamoto xung đột (Bạo loạn Heiji), và 20 năm quyền lực của nhà Taira bắt đầu. Nhà Taira bị cám dỗ bởi đời sống triều đình và bỏ mặc vấn đề của các tỉnh. Cuối cùng, Minamoto no Yoritomo nổi lên từ căn cứ của mình ở vùng Kantō và đánh bại nhà Taira, và cùng với họ là vị Hoàng đế bù nhìn Antoku, trong chiến tranh Genpei.

Các Thái chính đại thần (Daijo-daijin) và nhiếp chính quan bạch (Sessho and Kampaku) thời Heian:

Thái chính đại thần (Daijo-daijin) họ Fujawara:


  • Yoshifusa: 857 - 872

  • Mototsune: 880 - 891

  • Tadahira: 936 - 949

  • Saneyori: 967 - 970

  • Koretada: 971 - 972

  • Kanemichi: 974 - 977

  • Yoritada: 978 - 989

  • Kaneie: 990

  • Tamemitsu: 991 - 992

  • Michinaga: 1017 - 1018

  • Kinsue: 1021 - 1029

  • Yorimichi: 1061 - 1062

  • Norimichi: 1070 - 1071

  • Nobunaga: 1080 - 1089

  • Tadazane: 1112 - 1113

  • Masazane: 1122 - 1124

  • Tadamichi: 1129

  • Tadamichi: 1149 - 1150

  • Saneyuki: 1150 - 1157

  • Munesuke: 1157 - 1160

  • Koremichi: 1160 - 1165

  • Taira no Kiyomori: 1167

  • Tadamasa: 1168 - 1170

  • Motofusa: 1170 - 1171

  • Moronaga: 1171 - 1179

  • Kanezane: 1189 - 1190

  • Kanefusa: 1190 - 1196

Nhiếp chính (Sesshō) họ Fujiwara[1]:


  • Yoshifusa: 858 - 872

  • Mototsune: 880 - 891

  • Tadahira: 930 – 941

  • Saneyori: 969 – 970

  • Koretada: 970 - 972

  • Kaneie: 990

  • Michitaka: 990 – 993

  • Michinaga: 1016 - 1017

  • Yorimichi: 1017 - 1019

  • Morozane: 1086 - 1090

  • Tadazane: 1107 – 1113

  • Tadamichi: 1123 – 1129, 1141 - 1150.

  • Motozane: 1165 – 1166

  • Motofusa: 1166 – 1172

  • Konoe Motomichi: 1180 – 1183

  • Matsudono Moroie: 1183 – 1184

  • Konoe Motomichi: 1184 – 1185

Quan bạch (Kampaku) họ Fujiwara:


  • Mototsune: 880 - 890

  • Tadahira: 941 – 949

  • Saneyori: 967 – 969

  • Kanemichi: 972 - 977

  • Yoritada: 977 - 986

  • Kaneie: 990

  • Michitaka: 990; 990 - 995

  • Michikane: 995

  • Yorimichi: 1019 – 1067

  • Norimichi: 1094 – 1099

  • Tadazane: 1105 – 1107; 1113 – 1121

  • Tadamichi: 1121 – 1123; 1129 – 1141; 1150 – 1158

  • Konoe Motozane: 1158 – 1165

  • Motofusa: 1172 – 1179

  • Konoe Motomichi: 1179 – 1180

Sự phát triển của Phật giáo[sửa | sửa mã nguồn]


Phổ Hiền Bồ Tát diên mệnh, một bức tranh vẽ trên lụa thế kỉ 12, cuối thời Heian.

Phật giáo bắt đầu lan rộng ở Nhật Bản trong suốt thời kì Heian, chủ yếu qua hai giáo phái lớn là Thiên thai tông và Chân ngôn tông. Thiên thai tông có nguồn gốc từ Trung Quốc, dựa trên Diệu pháp liên hoa kinh, một trong những kinh điển quan trọng của Phật giáo Đại thừa. Chân ngôn tông lại là một giáo phái bản địa sáng lập bởi Kūkai, một giáo phái có quan hệ gần gũi với Ấn Độ Giáo, Phật giáo Tây Tạng nguyên căn cũng như tư duy của Phật giáo Trung Hoa. Kūkai tạo được một ảnh hưởng mạnh mẽ với người kế nhiệm Nhật hoàng Kammu cũng như các thế hệ người Nhật Bản không chỉ bởi tính linh thiêng, mà còn bởi nghệ thuật viết chữ, khả năng thi ca, hội họa, điêu khắc của ông. Trong khi đó, bản thân Kammu rất hâm mộ Thiên thai tông. Giữa các tu viện của Thiên thai tông trên núi Hiei và triều đình ở kinh đô mới ngay chân núi có một quan hệ gắn bó chặt chẽ. Chính vì thế, Thiên thai tông có ảnh hưởng đặc biệt tới Nhật hoàng Kammu và tới cả quốc gia.


Văn học thời kỳ Heian[sửa | sửa mã nguồn]


Mặc dù chữ viết Trung Hoa (Kanbun-Hán văn) vẫn là ngôn ngữ chính thức của triều đình thời kỳ Heian, việc ra đời và sử dụng rộng rãi kana chúng kiến sự bùng nổ của văn học Nhật Bản. Tuy nhiên, dẫu có sự ra đời của nhiều thể loại văn chương như truyện-tiểu thuyết (物語, monogatari "vật ngữ"), các thể loại nhật ký (日記, nikki), du ký (紀行, kikō, kỷ hành), tùy bút (草子, sōshi, thảo tử), văn học chỉ thịnh hành trong triều đình và các nhà sư.

Lời của bản quốc ca Nhật Bản hiện nay, Kimi Ga Yo, nguyên là một bài waka được viết trong hậu kỳ Heian, cũng như Truyện kể Genji (源氏物語, Genji monogatari) của Murasaki Shikibu, được công nhận là tiểu thuyết theo nghĩa hiện đại đầu tiên không chỉ của Nhật Bản mà còn của cả thế giới. Người cùng thời và là đối thủ của Murasaki Shikibu trong cung, bà Sei Shōnagon hé lộ sự quan sát và suy ngẫm thâm trầm trong Sách gối đầu (枕草子, Makura no Sōshi) được viết vào thập kỷ 990. Bài thơ Nhật Bản nổi tiếng Iroha (いろは) cũng được viết dưới thời Heian.



Trong khi một mặt thời kỳ Heian là một giai đoạn hòa bình kéo dài bất thường, một mặt nó lại làm suy yếu nền kinh tế Nhật Bản và dẫn đến nghèo đói cho gần như mọi cư dần chỉ trừ một vài người thuộc giai tầng trên. Các quý tộc được hưởng lợi lộc từ nền văn hóa Heian, những Yokibito nghĩa là "người tốt" hay "người may mắn", có tổng số 5000 người ở đất nước có 5 triệu dân. Một lý do mà tầng lớp samurai có thể nắm quyền là giai cấp quý tộc thống trị thiếu khả năng quản lý nước Nhật và các tỉnh. Cho đến năm 1000 chính quyền không còn biết làm thế nào để phát hành tiền tệ nữa và tiền dần dần biến mất. Việc thiếu các phương tiện trung gian hữu hình để trao đổi kinh tế được minh họa rõ rệt trong các tiểu thuyết đương thời. Ví dụ như người đưa thư được thưởng những vật dụng hữu ích, như lụa kimono cũ, thay vì trả tiền. Nhà thống trị Fujiwara cũng thất bại trong việc duy trì một lực lượng cảnh sát đầy đủ, kẻ cướp tha hồ săn đuổi khách bộ hành. Điều này lại một lần nữa xuất hiện trong các tiểu thuyết qua sự kinh hãi khi phải ra ngoài vào ban đêm ám ảnh nhân vật chính.



  • 784: Nhật hoàng Kammu dời đô đến Nagaoka-kyo (Kyoto)

  • 794: Nhật hoàng Kammu dời đô đến Heian-kyo (Kyoto)

  • 804: Nhà sư Saichō (Dengyo Daishi) khởi đầu hệ phái Thiên Thai Tông

  • 806: Nhà sư Kūkai (Kōbō Daishi) truyền bá hệ phái Shingon (Tantric)

  • 819: Kūkai xây dựng tu viện trên núi Koya, ở phía Đông Bắc phần ngày nay là tỉnh Wakayama

  • 858: Nhật hoàng Seiwa bắt đầu sự thống trị của nhà Fujiwara

  • 990: Sei Shonagon viết Sách gối đầu

  • 1050: Tầng lớp quân sự nắm quyền (samurai)

  • 1053: Đền Byodo-in (gần Kyoto) được Fujiwara Yorimichi khánh thành

  • 1068: Nhật hoàng Go-Sanjo lật đổ gia tộc Fujiwara

  • 1087: Nhật hoàng Shirakawa thoái vị và đi tu, trở thành "ẩn đế" đầu tiên (insei)

  • 1156: Taira Kiyomori đánh bại gia tộc Minamoto và nắm quyền, theo đó chấm dứt thời kỳ "insei"

  • 1185: Nhà Taira bị đánh bại (chiến tranh Genpei) và Minamoto Yoritomo của gia tộc Hōjō nắm quyền, trở thành Shogun đầu tiên của Nhật Bản, trong khi Hoàng đế (hay "mikado") chỉ là bù nhìn.

  • 1191: Phật giáo Rinzai Zen được truyền vào Nhật Bản bởi nhà sư Eisai ở Kamakura và được tầng lớp samurai, tầng lớp thống trị trong xã hội Nhật Bản đón nhận.






Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984 – Wikipedia tiếng Việt

Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984 UEFA Championnat Européen de Football France 1984 Thông tin chung Nước chủ nhà   Pháp Thời gian 12 – 27 tháng 6 Số đội 8 Địa điểm thi đấu 7  (tại 7 thành phố chủ nhà) Vị trí chung cuộc Vô địch   Pháp (lần thứ 1) Á quân   Tây Ban Nha Thống kê Số trận đấu 15 Số bàn thắng 41  (2.73 bàn/trận) Khán giả 599.669  (39.978 khán giả/trận) Vua phá lưới Michel Platini (9 bàn) Giải vô địch bóng đá châu Âu 1984 ( Euro 1984 ) là giải vô địch bóng đá châu Âu lần thứ bảy do UEFA tổ chức 4 năm một lần. Vòng chung kết diễn ra tại Pháp từ ngày 12 đến ngày 27 tháng 6 năm 1984. Tại giải, đội tuyển Pháp dưới sự dẫn dắt của Michel Platini giành chức vô địch châu Âu đầu tiên của mình. Còn Tây Đức trở thành đội đương kim vô địch đầu tiên bị loại ở ngay từ vòng bảng. Các quốc gia lọt vào vòng chung kết Euro 1984 Các quốc gia tham dự vòng chung kết lần này gồm: Vòng đấu bảng [ sửa | sửa mã nguồn ] Đội giành quyền vào vòng trong. Bảng A [ sửa | sửa mã nguồn ] Đội Pld W D L

Mạng Hopfield – Wikipedia tiếng Việt

Mạng Hopfield là một dạng mạng nơ-ron nhân tạo học định kỳ do John Hopfield sáng chế. Mạng Hopfield đóng vai trò như các hệ thống bộ nhớ có thể đánh địa chỉ nội dung với các nút ngưỡng dạng nhị phân. Chúng được bảo đảm sẽ hội tụ về một cực tiểu cục bộ, nhưng không đảm bảo sẽ hội tụ về một trong các mẫu được lưu trữ. Mạng Hopfield có bốn nút. Các nút trong mạng Hopfield là những nút ngưỡng có dạng nhị phân, tức là các nút này chỉ có hai giá trị khác nhau biểu hiện trạng thái và giá trị này được xác định nhờ vào một ngưỡng mà ngõ nhập của nút có vượt quá hay không. Các nút trong mạng Hopfield có thể có giá trị 1 hoặc -1, hoặc các giá trị 1 hoặc 0. Do đó, có thể có hai cách định nghĩa cho việc xác định phần tử i , a i {displaystyle a_{i}} : (1) a i ← { 1 neu  ∑ j w i j s j > θ i , − 1 neu nguo.c lai. {displaystyle a_{i}leftarrow left{{begin{matrix}1&{mbox{neu }}sum _{j}{w_{ij}s_{j}}>theta _{i},\-1&{mbox{neu nguo.c lai.}}end{matrix}}right.} (2) a i ← { 1 neu  ∑ j w i j s j